Tuesday, February 24, 2015



Cũng như nhiều loài cây cỏ khác, ngoài chức năng làm thực phẩm giàu dinh dưỡng, hoa thiên lý có nhiều tác dụng không ngờ. Đông y cho rằng hoa thiên lý có vị ngọt, tính bình với công năng giải nhiệt, chống rôm sảy, còn là vị thuốc có công hiệu an thần, tư bổ tâm, giúp ngủ ngon giấc.

Những bài thuốc hay từ hoa thiên lý

Cũng như nhiều cây cỏ khác, hoa thiên lý còn gọi là dạ lý hương, dạ lài hương, Tonkin creeper hay Chinese violet… có tên khoa học Telosma cordata (Burm.f.) merr, thuộc họ thiên lý (Asclepiadoceae). Là loại cây có cội nguồn từ các nước Đông Nam Á.

Thiên lý là loại cây nhỏ, thân dây mọc leo, chia làm nhiều nhánh. Lá đơn nguyên, mọc đối, gốc hình tim, thuôn, có màu xanh lục bóng. Ra hoa thành xim (chùm) dạng tán, ở nách lá màu vàng, xanh lục nhạt, cánh hoa hợp thành ống dài, trên chia thùy hẹp dài, quả hạt dài. Hoa thơm về đêm nên có tên dạ lý hương. Mùa hoa nở cốt tử vào mùa hè nên trồng làm cảnh che bóng mát trong sân nhà và lấy hoa làm thực phẩm. Ngoài ra, dân gian còn lưu truyền sáu bài thuốc hay từ hoa thiên lý.

Theo nghiên cứu y học đương đại, thành phần dinh dưỡng có trong cây thiên lý bao gồm: chất xơ 3%, chất đạm 2,8%, và gồm chất bột đường, các vitamin như C, B1, B2, PP và tiền vitamin A (caroten), cùng các khoáng vật cần cho thân thể như calcium, phospho, sắt, đặc biệt là kẽm (Zn) có hàm lượng khá cao, do vậy thiên lý vừa là thức ăn và thuốc bồi bổ giúp trẻ mau lớn, giúp người già giảm chứng phì đại tuyến tiền liệt vừa tăng sức đề kháng cho người sử dụng. Chất kẽm còn có tác dụng đẩy chì ra khỏi tinh khí, chữa chứng vô cơ ở nam do liền tù tù xúc tiếp với chì.

Bài thuốc chữa bệnh từ hoa thiên lý

1. Chữa đinh nhọt

Lấy lá cây thiên lý 30 – 50g, giã nhỏ đắp vào chỗ mụn nhọt, ngày thay 1 lần, vài ba ngày sẽ khỏi.

2. Chữa tiểu buốt

Lấy rễ cây thiên lý từ 10 – 20g, sắc lấy nước uống 2 – 3 lần trong ngày. Uống trong 5 ngày.

3. Chữa mất ngủ

Hoa thiên lý 30g, hoa nhài 10g, tâm sen 15g. Ba thứ sắc chung lấy nước uống trong ngày. Dùng liên tiếp trong một tuần.

4. Phòng rôm sảy ngày hè

Hằng ngày nấu canh hoa thiên lý ăn. Với trẻ có thể xay lá và hoa thiên lý ra nấu lẫn với bột khi cho trẻ ăn dặm

5. Trị giun kim

Lấy lá thiên lý non nấu canh cho trẻ ăn liền từ 7 – 10 ngày sẽ hiệu quả. Hoặc có thể dùng bài thuốc sau: Hoa thiên lý 30g, rau sam 20g, lá đinh lăng 25g. Ba thứ rửa sạch, sao khô, sắc lấy nước uống trong ngày, mỗi ngày chia làm 3 lần, uống liên tiếp trong 3 ngày.

6. Giảm đau mình mẩy, nhức xương cốt

Hàng ngày lấy hoa thiên lý xào với thịt bò ăn sẽ có tác dụng.

Lưu ý, do trong thiên lý chứa kẽm nên khi dùng không xào nấu cùng với các thức ăn giàu chất sắt như gan, thịt lợn nạc, rau muống… vì chất sắt có trong các loại thực phẩm này sẽ đẩy kẽm ra khỏi cơ thể.

Xem thêm các bài thuốc hay

Sunday, February 15, 2015



tàn hương xuất hiện trên khuôn mặt bạn là một dấu hiệu cho thấy da bạn và nội tiết tố đang gặn vấn đề. Chúng làm bạn không đau nhưng lại khôn xiết khó chịu, nhất là khi soi gương hay trang điểm. Có nhiều cách để bạn khử những vết tàn hương này: mỹ phẩm, thẩm mỹ… bữa nay chúng tôi giới thiệu cách trị tàn nhang cực đơn giản với lá trầu không.

Lá trầu không

Lá trầu không có chứa nhiều nước, muối khoáng, protein, chất xơ, carbohydrate cùng nhiều loại khoáng chất khác như kẽm,canxi rất có tác dụng kìm chế và đẩy lùi các melamin. Bên cạnh đó, 1 số thành phần trong lá trầu không còn có công dụng trị nám tàn hương và tiệt trùng khá tốt. Cách này đã được áp dụng và đã làm mờ vết tàn nhang cho rất nhiều bạn gái. Không chỉ xóa tàn hương mà lá trầu không còn chứa nhiều thành phần vitamin và các khoáng vật bổ sung dưỡng chất cho làn da đẹp.

Cách dùng trị tàn nhang

Chuẩn bị

Một nắm lá trầu không loại lá bánh tẻ (lá bánh tẻ là lá thường để bán cho những người ăn trầu, không non quá mà cũng không già quá)

thực hành

Rửa sạch lá trầu không, có thể ngâm sơ qua nước muối để làm sạch, hoặc sục ozon để đảm bảo không còn thuốc bảo vệ thực vật hay tăng trưởng…
  • Cho nắm lá trầu không vào nồi sạch. Đổ nước lạnh vào ngập hơn mặt lá từ 1 -1,5 đốt ngón tay rồi cho lên bếp đun sôi khoảng 30 phút.
  • Vớt lá trầu không cho vào máy xay sinh tố. Cho thêm 1 chút nước luộc lá vào cùng để xay thật nhuyễn.
  • Bỏ lá trầu không đã được xay thật nhuyễn và nồi nước lá trầu không rồi đấu đun nhỏ lửa cho đến khi lá trầu được cô đặc như keo lệt sệt.
  • Bỏ keo vào 1 hũ sạch để trong tủ lạnh, đậy kín. Mỗi lần dùng, lấy muỗng múc ra 1 ít.

Cách dùng
  • Mặt rửa sạch rồi lấy trầu không đã được cô thành keo bôi lên mặt như làm mặt nạ khoảng 15-30′. Sau đó rửa sạch lại bằng nước.
  • Làm liên tiếp mỗi ngày 1 lần trong 10 ngày liên tiếp. Sau đó 1 tuần làm 1 lần (đối với những vết nám nhẹ, còn những vết đậm thì có thể dùng thời gian lâu hơn).

Khi đắp lên mặt có thể da hơi bị cắn cắn 1 chút. Cứ thế, trị tàn nhang bằng việc đắp mặt nạ lá trầu không này 2 tháng và thấy hiệu quả rõ rệt.

ngoại giả bạn còn có thiết chế biến mặt nạ đắp mặt từ lá trầu không nhé.

Làm mặt nạ từ lá trầu không

Rửa sạch lá trầu không ngâm qua nước muối để làm sạch.

Cho lá vào nồi sạch, cho nước ngập lá 1 -1,5 đốt ngón tay đun sôi khoảng 30 phút.

Lá trầu không cho vào máy xay nhuyễn với một tẹo nước luộc. Bỏ lá trầu không đã được xay thật nhuyễn và nồi nước lá trầu không rồi tiếp chuyện đun nhỏ lửa cho đến khi lá trầu được cô đặc như keo lệt sệt.

Bỏ keo vào 1 hũ sạch để trong tủ lạnh, đậy kín. Mỗi lần dùng, lấy muỗng múc ra 1 ít.

Rửa mặt sạch rồi lấy trầu không keo bôi lên mặt như làm mặt nạ khoảng 15-30 phút. Sau đó rửa sạch lại bằng nước.
Làm liên tục mỗi ngày 1 lần trong 10 ngày liên tục. Sau đó 1 tuần làm 1 lần (đối với những vết nám nhẹ, còn những vết đậm thì có thể dùng thời gian lâu hơn).

Lưu ý khi dùng lá trầu không đắp mặt
  • Chỉ dùng trên vùng da có nám, không thoa rộng hết mặt.
  • Chỉ đắp hỗn tạp trong khoảng 10 phút, không lên quá lâu.
  • Đắp 10 ngày liên tục sau đó chuyển sang 1 tuần 1 lần.
  • Trong thời gian trị nám tàn nhang bằng lá trầu không bạn nên bảo vệ da, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng ác vàng.

Chúc các chị em thành công và làn da không tỳ vết nhé!

Xem thêm các bai thuoc hay

Wednesday, February 11, 2015



Từ xa xưa, khi nhắc đến hoa nhài người ta chỉ biết nó dùng để ướp trà nhưng ít ai biết hoa nhài lại có tác dụng to lớn trong việc điều trị bệnh thường gặp không kém các cây hoa thuốc còn lại.

Chữa bệnh từ bài thuốc hoa nhài

Cây hoa nhài là loại cây thân gỗ, thường mọc thành bụi, lá bóng cả hai mặt, phiến lá hình bầu dục hơi trái xoan, mọc đối. Hoa trắng, mọc thành cụm ở nách lá hay ngọn cây, hoa hay nở vào ban đêm, cũng có khi nở rộ vào giữa trưa. Hoa nhài màu trắng, mọc thành cụm ở nách lá hay ngọn cây, thường nở vào ban đêm hoặc vào giữa trưa. Hoa nhài có tính bình, hơi hàn, vị đắng có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, lợi thấp, tiêu thũng, hoạt huyết… Bộ phận sử dụng làm thuốc là hoa và rễ. Trong hoa nhài chứa chất béo thơm khoảng chừng 0,08%. Rễ tuy độc nhưng được dùng làm thuốc giảm đau.

Theo y khoa cổ truyền, hoa và lá nhài có vị cay và ngọt, tính mát; có tác dụng trấn thống, thanh nhiệt giải biểu, lợi thấp. Có công dụng trị ngoại cảm phát sốt, đau bụng, mụn nhọt độc. Hoa sắc nước dùng rửa mặt, chữa viêm màng khóe mắt và màng mộng, chữa trẻ em lên sởi có sốt, sởi mọc không đều. Lá cũng dùng trị bạch đới.

Hoa nhài được trồng làm cảnh ở khắp nước ta. Ngoài công dụng để ướp trà, hoa nhài còn là vị thuốc chữa một số bệnh thường ngày.

Bài thuốc từ hoa Nhài
  • 1. Trị rối loạn tiêu hóa, tiêu chảy do ăn thức ăn sống lạnh: Hoa nhài 10g, vỏ quả lựu 10g, cam thảo đất 16g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2 – 3 lần. Uống trong 4 ngày. Hoặc hoa nhài 6g, chè xanh 10g, thảo quả 3g, vỏ dộp ổi 3g. Cách dùng: 4 thứ trên đem sắc với 600ml nước còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày, uống sau các bữa ăn. Uống liên tiếp trong 3 ngày
  • 2. Hỗ trợ điều trị tăng áp huyết: Hoa nhài 10g, hoa hòe 10g, kim cúc 6g, hoa đại 6g. Sắc với ba bát nước còn một bát, chia uống hai lần trong ngày. Uống vào buổi sáng và tối sau bữa ăn. Mỗi liệu trình uống 10 ngày.
  • 3. Chữa mất ngủ: Hoa nhài 10g, bồ công anh 20g, kim ngân hoa 20g, cam thảo đất 10g, sắc uống ngày 1 thang chia 2 – 3 lần. Uống liên tiếp trong 7 ngày. Hoặc hoa nhài 6g, tâm sen 8g. Hoa nhài và tâm sen hãm với nước sôi uống nhiều lần trong ngày. Uống liên tiếp từ 7 – 10 ngày sẽ thấy kết quả rõ rệt.
  • 4. Nhức mỏi, đau mỏi đầu gối: Hoa nhài 50g, móng giò lợn 200g. Cách chế biến: Móng giò lợn rửa sạch, chặt khúc, ướp gia vị. Hoa nhài đã rửa sạch để ráo. Cho 3 bát nước đun sôi móng giò khoảng 30 phút, cho hoa nhài vào, nêm gia vị vừa đủ bắc ra ngay. Ăn khi canh còn nóng, có thể dùng làm canh ăn với cơm. Mỗi tuần nên ăn khoảng 3 – 5 lần.
  • 5. Giúp thanh nhiệt mùa hè, tăng cường sức đề kháng: Hoa nhài khô 1 thìa, cho hoa nhài vào bình trà, cho 300ml nước sôi để hãm, 5 phút sau trà có mùi thơm, uống được, người thích ngọt thì cho thêm mật ong hòa đều để nguội uống. Hoặc hoa nhài khô 6g sắc uống thay nước hàng ngày. Bài thuốc này có công dụng thanh thuần tỉnh não, khai khiếu giải sầu.

Xem thêm các bài thuốc hay



Trong Đông y, những cây thuốc có tác dụng giải độc rất phong phú và mang lại hiệu quả cao trong những nhiều trường hợp ngộ độc thuốc hoặc thực phẩm.

Đối với người dân ở những vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa thì những cây thuốc có tác dụng giải độc này lại có giá trị dự hơn cả. Dưới đây baithuoc.vn nêu ra những loại cây có tác dụng hỗ trợ thanh nhiệt, giải độc hiệu quả.

Sắn dây

Theo Đông y, sắn dây có vị ngọt, tính bình, công năng giải nhiệt, giải biểu, sinh tân dịch, chỉ khát, tác dụng chữa cảm mạo, phát sốt, ban sởi mới phát, đi lị ra máu, khát nước, mụn nhọt. ngoại giả bột sắn dây còn có tác dụng giã rượu rất tốt.

Cách dùng sắn dây thanh nhiệt giải độc như sau: Lấy củ sắn dây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống hoặc sử dụng củ sắn dây khô sắc lấy nước uống; bột sắn dây hòa với nước rồi pha thêm đường uống; lá sắn dây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước uống để chữa rắn độc cắn, bã đắp lên trên vị trí tổn thương.

Cây hoa mua

Ở nước ta có nhiều loại mua, người ta hay dùng cây mua lùn để làm thuốc. Thường dùng để giải độc sắn và chữa rắn độc cắn.

Cách dùng cây hoa mua giải độc rắn cắn như sau: Lấy rễ giã nát, hãm với nước sôi hoặc sắc lấy nước uống)

Cây đậu xanh

Theo Đông y, đậu xanh vị ngọt, tính lạnh, có công dụng thanh nhiệt giải độc, tiêu thử lợi tiểu. Đậu xanh là loại thức ăn nhiều kali, ít natri. Người thường xuyên ăn đậu xanh và chế phẩm của nó áp huyết của họ sẽ thấp. Trong đậu xanh còn có thành phần hạ huyết mỡ hữu hiệu, nó còn giúp cho thân thể phòng chứng xơ cứng động mạch và bệnh cao áp huyết, song song có công hiệu bảo vệ gan và giải độc.

Cách dùng đậu xanh giải độc như sau: 100g đậu xanh rửa sạch, nghiền sống, chế nhiều nước rồi uống hoặc nhai luôn 1-2 nắm hạt sống rồi uống nhiều nước. Có thể lấy cả hạt ninh nhừ ăn, nếu chỉ có vỏ hạt thì sắc lấy nước uống. Cũng có thể dùng bột đậu xanh hoà với nước nguội để uống. Hạt đậu xanh dùng giải độc trong mọi trường hợp, đặc biệt khi say sắn và ngộ độc nấm.

Kim ngân

Là một loại dây leo, có thể dài đến 9-10m, có nhiều cành, thân rỗng, lúc non mầu xanh, khi già mầu đỏ nâu, trên thân có những vạch chạy dọc.

Dùng Kim ngân chữa mụn nhọt, các chứng ngứa, lở, dị ứng, rôm sẩy, lên đậu, lên sởi, tả lỵ

Cách dùng: Lấy 12g hoa (kim ngân hoa) hay 20g cành lá (kim ngân đằng) sắc lấy nước uống hàng ngày.

Rau má

Rau má vị ngọt, tính mát, có công dụng thanh nhiệt giải độc, làm mát gan và lợi tiểu.

Cách dùng: Rau má rửa sạch, giã nát, hòa với nước ấm rồi gạn lấy nước uống; để chữa ngộ độc nấm cũng làm như trên hoặc lấy rau má 160g đem sắc với 80g đường phèn lấy nước uống hoặc lấy 160g rau má và 400g củ cải tươi, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống.

Xem thêm các bài thuốc dân gian



Cua đồng hay còn có tên gọi khác là “Điền giải”, sinh sống ở những vùng nước ngọt, phân bố rộng rãi từ đồng bằng đến trung du miền núi nước ta. Cua đồng thường được dùng làm món ăn bồi bổ trong những ngày hè oi ả như: riêu cua, lẩu cua, bún măng cua.. có tác dụng giải nhiệt, dễ tiêu hóa.

Theo Đông y, cua đồng có tính hàn, vị mặn, hơi độc. Cua đồng được dùng trong Đông y làm bài thuốc liền gân nối xương, trị nhiệt tà, trừ ghẻ lở, máu đông cục…

Theo như Sách Nam dược của Tuệ Tĩnh cho biết: “Điền giải có vị mặn, mùi tanh, tính hàn, hơi độc, tác dụng liền gân, nối xương, trị nhiệt tả, ngộ độc, máu kết cuộc, lở ghẻ”. Theo sách Dược tính chỉ nam của Tuệ Tĩnh có ghi thêm: “Điền giải có tác dụng tán tà nhiệt trong lồng ngực, thông được kinh mạch, làm cho ngũ tạng khỏi phiền, giải được độc do thức ăn, liền được gân, thêm sức cho xương, hữu ích khí lực, tống được các vật kết đọng trong người, phá được chứng ứ huyết do vấp ngã hoặc bị đánh chấn thương, sốt rét”…

Những món ăn – bài thuốc từ cua đồng được Đông y sử dụng

Trị ghẻ lở, thanh nhiệt cơ thể: Lấy 200g cua đồng bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước; mướp hương 1 – 2 trái cạo vỏ, rửa sạch, cắt miếng; rau đay và mùng tơi tươi mỗi thứ 100g rửa sạch, cắt đoạn. Đun sôi nước cua và cho các loại rau vào, đến khi mướp chín là được.

Trị còi xương, chậm đi ở trẻ nhỏ: Cua đồng sau khi được làm sạch, bỏ chân, càng, mai, yếm, chỉ lấy mình cua, rang nhỏ lửa cho vàng và khô. Giã nhỏ, rây lấy bột mịn. Hàng ngày, dùng bột cua quấy với bột gạo cho trẻ ăn, mỗi lần 1 – 2 thìa nhỏ. phối hợp cho trẻ tắm nắng vào buổi sáng 15 phút, 2 – 3 lần/tuần sẽ cho kết quả tốt hơn.

Trị lành viết thương bầm dập: cua đồng 2 con giã nát, rượu 1 chén, cho vào nồi đun sôi, gạn lấy nước uống, bã đắp vào chỗ đau.

Trị chứng mất ngủ, biếng ăn: sử dụng 1 – 2 nắm rau rút bỏ rễ, cạo bỏ phần bấc, ngắt đoạn, rửa sạch; khoai sọ 300 – 400g cạo vỏ, xắt nhỏ; cua đồng 200g bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, gạn lấy nước. Cho khoai sọ vào nước cua nấu chín, khi gần chín, cho rau nhút vào, đun sôi tiếp 5 – 10 phút. Ăn trong ngày, cần ăn 2 – 3 ngày.

Trị chứng viêm thận cấp bằng cua đồng: Lấy 250g cua đồng bỏ yếm, mai, rửa sạch, giã nát, lọc lấy nước; vỏ cây dâu 50g rửa sạch, cắt đoạn. Đem toàn bộ nấu thành canh, uống nước.

Trị chứng chướng bụng, đầy hơi: Cua đồng làm sạch, giã lấy nước nấu cháo, ăn nóng.

Trị đau răng lợi, nhiệt miệng: sử dụng cua đồng nấu với khổ qua, ăn hàng ngày có tác dụng thanh nhiệt rất tốt.

Tuy nhiên, cua đồng không phải tốt cho sức khỏe của tuốt luốt mọi người. Những người không nên sử dụng cua đồng như: Những người ốm, những người mới ốm dậy, đàn bà có thai, những người có trình diễn.# tỳ vị hư hàn. Trong gạch cua có chứa nhiều hàm lượng cholesterol, nên người áp huyết cao, bệnh tim mạch cần hạn chế dùng.

Lưu ý: Trong các món ăn được chế biến từ cua đồng nên cho thêm tử tô và gừng để làm giảm bớt tính hàn.

Xem thêm các bài thuốc dân gian

Tuesday, February 10, 2015



Đàn ông dùng nấm này trực tính thì dễ năm thê bảy thiếp, mà dẫn đến nát cửa tan nhà!

Mới đây, trong lần vào bản Phìn Sư (xã Túng Sán, Hoàng Su Phì, Hà Giang) của người Cờ Lao, tôi được thầy cúng Min Phà Sinh, người Cờ Lao mời uống một thứ nước lạ. Thứ nước ấy có màu đen thẫm, vị hơi chát. Uống xong bát nước, một cảm giác khá lạ xảy ra: Sự rã rời của thân thể sau hành trình đánh vật dài đằng đẵng với cung đường dốc ngược như đường lên trời, tuồng như tan biến đâu mất. Từng dùng nhiều loại thảo dược quý, song tôi phải xác nhận, thứ thảo dược này rất lạ. Tôi thanh minh ý muốn được xem thứ thảo dược lạ ấy.

Thầy cúng Min Phà Sinh gọi vợ, nói mấy câu Cờ Lao, nghe hệt tiếng Tàu, thì cô vợ đi ra phía trái nhà. Lát sau, vợ Min Phà Sinh mang đến một sâu thứ thảo dược lạ dùng nấu nước ấy.

Từng đi rừng nhiều, biết nhiều loại nấm, từ nấm phục thần mọc dưới lòng đất, ký sinh trên rễ cây thông đỏ, cho đến phục linh thiên mọc trên ngọn cây vân sam trên đỉnh Fansipan quý như vàng ròng, song tôi chưa được thấy loài nấm này.

Nấm tan cửa nát nhà

Cả củ và thân nấm, trông chả khác gì nguyên cụm… của quý. Hai “viên ngọc” bám lủng lẳng hai bên, và nảy nòi từ giữa hai “viên ngọc” đó là “cái cột có mũ”. Tôi thiết nghĩ, củ nấm này đem về xuôi, chị em nhìn thấy, chắc cũng phải đỏ mặt.

Min Phà Sinh năm nay 54 tuổi, đã có chắt nội, chắt ngoại, tức lên chức cụ, mà trông khá trẻ. Vợ Sinh cũng đã 55 tuổi, mà má vẫn hồng, tóc vẫn đen, răng vẫn chắc. Người Cờ Lao sống ở sát đỉnh Tây Côn Lĩnh, cuộc sống hà khắc, nghèo túng, mà giữ được dáng dấp như thế kể cũng lạ. Thầy cúng Sinh vẫn liếm dao nung đỏ cháy xèo xèo, vẫn đi rừng xăm xăm và đi bộ hàng trăm cây số để đuổi ma, xua tà cho những gia đình ham trò mê tín dị đoan ở nơi khác.

Theo thầy cúng Sinh, để giữ được thể trạng sung mãn, trẻ trung ấy, Min Phà Sinh tiết lậu, là do loài nấm có bộ dạng kỳ dị như của quý đàn ông. Thầy cúng Sinh không biết tên phổ thông của loài nấm này là gì, chỉ biết rằng, từ đời cha ông, tổ sư đã dùng như nước uống hàng ngày, nên đời sau cứ thế vào rừng hái.

Nấm ngọc cẩu.

Theo Min Phà Sinh, người Cờ Lao có cỗi nguồn từ Trung Quốc, di trú từ phía bên kia dãy Tây Côn Lĩnh sang bên này, thuộc đất Việt Nam mới khoảng 8 đời, tức cách nay chừng 150 đến 200 năm. tổ tiên, họ hàng Min Phà Sinh ở bên Trung Quốc vẫn còn nhiều, nên vẫn đi về. Cây nấm kỳ lạ này chính là thức uống bí truyền, chỉ dòng tộc của Sinh là biết và được truyền cho con dâu. Sở dĩ, các cụ truyền cho con dâu, vì người con dâu về với chồng, sẽ thành người trong nhà và người con dâu sẽ chăm chỉ vào rừng lấy nấm, điển tích trong nhà, để đại gia đình dùng dần, như một thứ thuốc thập toàn đại bổ.

Theo lời Sinh, sở dĩ con gái Trung Quốc có da dẻ trắng mịn, là vì đều được bố mẹ chỉ dạy cách hái thảo dược và uống thảo dược thay nước màu ngày. Tuy nhiên, không phải gia đình nào ở Trung Quốc cũng biết đến loài nấm có bộ dạng kỳ lạ, mà người Cờ Lao gọi là Xin Xao này. Tôi hỏi Min Phà Sinh rằng, tác dụng chính của củ nấm quái đản này là gì, thì thầy cúng Sinh không giải đáp ngay, mà kể một huyền thoại vừa có tính bi, hài, và hơi tục một tí. Huyền thoại này là của người Cờ Lao sống ở bên Trung Quốc kể.

Chuyện rằng, xưa kia, dãy núi Tây Côn Lĩnh cao đến tận trời, nên người trên trời và người hạ giới vẫn giao lưu với nhau. Các chàng trai Cờ Lao rất đẹp và khỏe, nên tiên nga trên trời rất yêu quý, thường xuống hạ giới để tư tình.

Hàng ngày, các thanh niên Cờ Lao không chịu cần lao, bỏ bê cả gia đình, vợ con để yêu đương với các ngọc nữ.Một ngày, đang yêu đương các tiên nữ, anh chàng Chảo Mìn Sư chợt nhận ra, hành động sống như thế này không ổn, sẽ làm toang hoang gia đình, thui chột nòi, nên Chảo Mìn Sư đã dùng dao cắt phăng của quý, ném xuống đất, để không còn đầu óc tơ tưởng đến các tiên nữ nữa. Các trai bản Cờ Lao bị tiên nga hớp hồn cũng chợt tỉnh, dùng dao cắt của quý bỏ đi như Chảo Mìn Sư. Của quý cắt đi rồi, họ không còn bị tiên nữ hấp dẫn nữa. Các nàng tiên nhìn cảnh ấy thì đau lòng, tiếc lắm. Để của quý không hỏng, các nàng tiên đã biến chúng thành loài nấm.nĐiều đặc biệt, là loài nấm đó ẩn trong lòng đất, chỉ đến tháng 9 và tháng 10 mới trồi lên khỏi mắt đất. Từ đó, cứ đến tháng 9 và tháng 10, các nàng tiên lại xuống Tây Côn Lĩnh hái củ nấm hình của quý mang về trời. Ăn thứ nấm ấy, các nàng tiên sống đến ngàn tuổi, cứ đẹp mãi, trẻ mãi.

phụ nữ Cờ Lao biết được bí quyết ấy, cũng hái nấm về ăn, để được trẻ mãi không già. Đàn ông Cờ Lao đem nấm ấy về nấu uống, cũng thấy khỏe mạnh, cường tráng, “yêu” vợ không biết mệt mỏi. Tôi hỏi Min Phà Sinh, rằng, liệu loài nấm kỳ dị này có thực thụ tăng cường sinh lực hay không? Thầy cúng Sinh cười tủm tỉm bảo: “Cứ cầu thân mình thì biết?”. Tôi quay sang hỏi vợ thầy cúng Sinh, chị bụm miệng cười, đỏ mặt quay đi. Sinh bảo thêm: “Đàn bà uống thứ nấm này vào, không chỉ xinh đẹp, trẻ mãi, mà còn hồi xuân đủ thứ, lấy được mấy chồng liền đấy nhé”.

Xem thêm các bai thuoc hay

Monday, February 9, 2015



Những bài thuốc cổ phương được baithuoc.vn tìm hiểu và cắt nghĩa giúp bạn đọc, người bệnh hiểu rõ hơn về thành phần, công dụng của những bài thuốc này

1, TẢ TÂM THANG

Đại hoàng (sao rượu) 2 chỉ

Hoàng Liên (Sao rượu) 3 chỉ

Hoàng Cầm (Sao rượu) 4 chỉ

Tâm là quân hỏa, hóa sinh ra huyết dịch, vậy huyết là phách của hỏa, hỏa tức là hồn của huyết, hỏa thăng nên huyết thăng, hỏa giáng nên huyết giáng. Biết rằng huyết sinh ra ở hỏa, hỏa chủ ở tâm thì biết rằng tả tâm nghĩa là tả hỏa, tả hỏa tức thị chỉ huyết. Đắc lực nhất là một vị Đại hoàng, bẻ gãy cái thế hỏa hừng mà giáng xuống, lại kiêm phá huyết trục ứ để khỏi làm hại. Vị này trần thế nay phần đông không ai dám dùng, không biết rằng khí nghịch huyết thăng được vị thuốc này giáng xuống rất mạnh để bẻ gãy thế của dương mà hòa âm, thực là thánh dược vậy !

vả chăng, không chỉ hạ khí ở Vị mà thôi, bên ngoài kinh mạch cơ phụ, hễ chỗ nào khí nghịch ở trong huyết phận, tính của Đại hoàng nơi nào nó cũng chạy suốt đến cả. Vì hơi thuốc rất mạnh, hễ người nào khí huyết bị ngưng tụ đều xài được cả, làm cho khí nghịch phải thuận ngay. cõi trần nay không dám dùng nên thường lưu tà lại trong thân thể rất đáng tiếc.

Bài thuốc gọi là Tả Tâm thang của Ông Trọng Cảnh, xét đến nguồn gốc mà chữa theo bài thuốc này mà biết được huyết sinh ra ở tâm, tâm tức là hỏa thì về huyết chứng luận đã biết được quá bán vậy !

2, THẬP KHÔI TÁN

Đại kế Trắc bá

Tiểu kế Đại hoàng

Mao căn Đơn bì

Tông lư Hà diệp

Thuyến thảo Chi tử

Các vị trên bằng nhau đốt tồn tính, giải trên đất để tiết hết hỏa độc, dẫn bằng đồng tiện hoặc rượu hoặc nước đen là màu sắc của thủy, khi đỏ thấy đen thì ngừng (kiến hắc tắc chỉ) nghĩa là thủy đã thắng hỏa vậy, do vậy đốt tồn tính thanh đen; đắc lực ở Sơn chi thanh hỏa, Đại hoàng giáng khí, hỏa thanh khí giáng thì huyết được yên. Còn các vị khác đều là thuốc hành huyết, chỉ nhờ để hướng đạo vậy. Thổi vào mũi để cầm máu cam, bôi vào vết thương để chỉ huyết đều dùng được cả.

3, CAM THẢO CAN KHƯƠNG THANG

Cam thảo (nướng) 3 chỉ

Ngũ vị (sao mật) 1 chỉ

Can khương (sao cháy) 2 chỉ

Cam thảo nướng qua thuần về bổ trung, Can khương sao đen thì chuyên về chỉ huyết, hai vị cay ngọt hợp hóa phù dương để đạt ra bốn phía huyết tự vận hành mà không trệ vậy. Ngũ vị thu liếm phế khí để không nghịch lên, lấy chỉ khí mà chỉ huyết. Phàm chứng dương hư tỳ không nhiếp huyết, nhưng huyết vốn là âm trấp, huyết thiếu nghĩa là âm thiếu, những thuốc cương táo thường kỵ dùng, phải xét kỹ mạch chứng, thật là hư hàn mới được dùng phương này.

4, TỨ VẬT THANG

Đương quy 4 chỉ

Sinh địa 4 chỉ

Xuyên khung 2 chỉ

Bạch thược 3 chỉ

Ông Kha Vâng Bá bàn rằng: Tâm sinh huyết, can tàng huyết, vì thế phàm muốn sinh huyết phải xét ở tâm, muốn điều huyết thì nên cần ở can vậy. Phương này chuyên về can kinh điều huyết, không phải là phương tâm kinh sinh huyết.

Đương quy hòa huyết, Xuyên khung hoạt huyết, Bạch thược liễm huyết, Địa hoàng bổ huyết. Bốn vị đủ cả tác dụng Sinh – Trưởng – Thu – Tàng bởi vậy có thể làm cho vinh khí lặng đi ở trong kinh lạc.

Nếu huyết hư thì gia Sâm, Kỳ; huyết kết thì gia Đào nhân, Hồng hoa; huyết bế gia Đại hoàng, Mang tiêu; huyết hàn gia Quế phụ; huyết nhiệt gia Cầm, Liên. Tùy nghi mà gia giẩm, không câu nệ ở cái tên Tứ vật

Nếu gặp những chứng huyết băng, huyết vựng không nên vội bổ bằng thang Tứ vật mà ngược lại giúp cho cái thế hoạt thoát, nên bổ khí sinh huyết, giúp cho lẽ dương sinh âm trưởng, vì phương này có thể bổ huyết chất hữu hình trong lúc bình thường mà không thể sinh huyết vô hình một cách vội. Phương này điều huyết ở trong âm nhưng chẳng thể bồi bổ gốc ở chân âm.

Ông Kha Vâng Bá bàn đây tuy rằng không đủ nghĩa với thang Tứ vật, song nói rằng Tứ vật là phương thuốc chuyên điều huyết của can kinh thì biết sâu xa về sở trường của nó, vì can chủ tàng huyết Xung, Nhung huyết hải đều thuộc can, vì vậy việc điều huyết mà bỏ không dùng Tứ vật là không thể thành công được.

5, ĐƯƠNG QUY LÔ HỘI HOÀN

Quy 1 lạng Hoàng Liên 1 lạng

Long đảm thảo 1 lạng Hoàng bá 1 lạng

Lô hội 5 chỉ Hoàng Cầm 1 lạng

Thanh đại 5 chỉ Đại hoàng 5 chỉ

Chi tử 1 lạng Mộc hương 2,5 chỉ

Xạ hương 5 phân

Trước dùng Thần khúc nếu hồ làm hoàn, uống với nước gừng để trị huyết bệnh, dùng rượu làm hoàn uống bằng đồng tiện thì tốt hơn. Người ta chỉ có can hỏa rất ngạo ngược thường đem hỏa của các kinh cùng nhau làm hại. Phương này dùng Thanh đại, Lô hội Long đảm thảo bẻ thẳng vào hỏa của can kinh.

Cầm, Liên, Chi, Bá, Đại hoàng chia nhau mà tả hỏa của các kinh, hỏa thịnh thì khí thực, thành ra lấy hai vị Hương để hành khí, hỏa thịnh thì huyết hư vì thế lấy Đương quy làm quân để bổ huyết.

Trị can hỏa quyết liệt chỉ có phương này là có lực lượng, không nên tỵ hiềm rằng tả nhiều bổ ít.

Xem thêm các bài thuốc dân gian